
(Nhịp sống trẻ) – Ba cơn bão liên tiếp đổ vào miền Bắc chỉ trong vòng chưa đầy một tuần, mang theo “túi nước khổng lồ” như cách mô tả của truyền thông quốc tế. Lượng nước mưa quá lớn đổ xuống trong một thời gian ngắn đã khiến lũ trên các con sông dâng cao, tạo ra những trận lụt kỷ lục. Những khu nhà tọa lạc ở nơi cao ráo, từng an toàn cả trong trận lụt lịch sử năm 1971, nay cũng nằm dưới mức nước sâu đến cả mét. Và khi cơn lũ rút đi, nó đã cuốn theo hàng chục sinh mạng và cơ man nào là gia súc-gia cầm, hoa màu, của cải, thậm chí là cả cơ nghiệp.

Bão số 9 – Ragasa (tên được Philippines đề cử) hình thành ở Tây Bắc Thái Bình Dương và đến ngày 21/9/2025, nó đã được cơ quan khí tượng Philippines coi là siêu bão. Ragasa đạt cường độ rất mạnh (cấp 16–17) khi vào Biển Đông, sau đó có xu hướng suy yếu khi đi gần quần đảo phía nam Trung Quốc. Khoảng sáng 25/9/2025, phần hoàn lưu của bão đi vào Vịnh Bắc Bộ và bão suy yếu thành áp thấp nhiệt đới/ vùng áp thấp khi tiếp cận ven biển Bắc Bộ, gây mưa to diện rộng và gió mạnh ở ven biển Bắc Bộ.
Ngay khi bão Ragasa, chưa kịp tan, một cơn bão khác được định danh là Bualoi (tên do Thái Lan đề cử) cũng đã hình thành và đi vào Biển Đông ngày 26/9, chính thức trở thành cơn bão số 10. Tại Philippines, Bualoi cướp đi sinh mạng của ít nhất 37 người, làm 13 người mất tích.
Vào rạng sáng ngày 29 tháng 9, cơn bão số 10 với gió giật cấp 12–13 và sóng cao 5–6 m đã đổ bộ trực tiếp vào Nghệ An và Hà Tĩnh, gây ra mưa lớn đến rất lớn trên diện rộng. Tại Hà Tĩnh, bão Bualoi hoành hành suốt nhiều giờ, từ đêm 28 tháng 9 đến rạng sáng 29 tháng 9. Nhiều hộ dân vừa mới khắc phục hậu quả của trận bão số 9 trước đó thì lại tiếp tục chịu thiệt hại nặng nề do Bualoi. Ít nhất đã có 57 người chết, 10 người mất tích do bão Bualoi gây nên.
Nỗi đau chồng nỗi đau. Vài ngày sau, Bão số 11 (Matmo) hình thành và chính thức đi vào Biển Đông ngày 3/10 rồi gây mưa cực lớn tại Đông Bắc Bộ và khu vực lân cận. Thời điểm ảnh hưởng mạnh nhất tại Bắc Bộ là từ ngày 6–8/10/2025, khi mưa cục bộ tập trung khiến nhiều trạm quan trắc ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh và Hà Nội xuất hiện lượng mưa lớn (một số nơi trên 300–500 mm trong 12–24 giờ), dẫn tới lũ sông, ngập lụt diện rộng, sạt lở và gây hậu quả nghiêm trọng về người và tài sản.

Thái Nguyên: “Chưa bao giờ thấy mưa lũ lụt lớn đến như vậy”
Với hầu hết người dân Thái Nguyên, đêm ngày 6/10 thật sự là một “đêm trắng”, mưa trắng trời, không ai dám ngủ vì nước dâng quá nhanh. Lượng mưa phổ biến từ 250- 400 mm, có nơi trên 500 mm. Thêm vào đó, thượng nguồn sông Cầu, khu vực Bắc Kạn cũ cũng mưa rất lớn, đổ dồn vào sông Cầu, chảy về Thái Nguyên gây lũ đặc biệt lớn, vượt lũ lịch sử.
Mực nước sông Cầu tại trạm Gia Bẩy, lũ đạt đỉnh ở mức 29,9m, trên báo động 3 là 2,9m, nước lũ ào ào chảy vào đô thị trung tâm tỉnh Thái Nguyên, làm nhiều người bất ngờ, ngỡ ngàng, ô tô, xe máy ngập hàng loạt, tài sản lềnh bềnh trong lũ. Những người 70- 80 tuổi chia sẻ, chưa bao giờ thấy mưa lũ lụt lớn đến như vậy.
Đợt mưa lũ lịch sử này sẽ ám ảnh nhiều người trong nhiều năm sau bởi sự kinh hoàng về mức độ lên nhanh, dâng cao, thiệt hại cho tỉnh và người dân Thái Nguyên. Phó Chi cục trưởng Thủy lợi Thái Nguyên Nguyễn Văn Bắc chia sẻ: “Tổng hợp sơ bộ báo cáo thiệt hại sau lũ lụt từ các đơn vị, địa phương mà xót xa”.

Toàn tỉnh có 7 người chết, trong tổng số 92 xã, phường thì có 54 xã, phường bị ngập, mất điện diện rộng; 200 nghìn hộ dân bị ngập lụt, sạt lở taluy dương, tốc mái, trong đó có gần 3.500 hộ phải di dời khẩn cấp; 115 nhà bị sập, hỏng hoàn toàn; 465 nhà bị hư hỏng nặng; 710 nhà bị hư hỏng một phần; 70 nghìn nhà bị ngập, bị lún nền, nứt tường, ước thiệt hại 1.450 tỷ đồng.
Ngập, hư hỏng khoảng 13.598 ha cây trồng, thủy sản, trong đó co 9.299ha lúa, 2.029 ha ngô, hoa màu, 533ha cây chè, 437 ha cây ăn quả, cây lâu năm, 182ha cây lâm nghiệp, 500 ha cây cảnh bị hư hỏng; 618ha thủy sản bị ngập, cuốn trôi; hơn 1 triệu con vật nuôi bị chết, bị cuốn trôi, trong đó có 13.560 con lợn, 204 con trâu, bò, ước thiệt hại 840 tỷ đồng.
Thiệt hại to lớn đối với người dân, theo thống kê sơ bộ là hơn 12 nghìn ô tô, hơn 40 nghìn xe máy các loại, tủ lạnh, ti vi, điều hòa nhiệt độ, bếp từ, bếp điện,… bị ngập, hư hỏng nặng; nhiều cửa hàng, khu thương mại, kho tàng, hàng hóa, trang thiết bị của doanh nghiệp và người dân bị ngập, hư hỏng, thống kê sơ bộ bị thiệt hại lên đến hơn 9.200 tỷ đồng, đời sống người dân bị kéo lùi nhiều năm.
Do nước đã bão hòa, địa hình miền núi nên sạt lở về giao thông diễn biến hết sức phức tạp, toàn tỉnh có 3.170 điểm giao thông bị sạt lở, ngập úng và một số thiệt hại khác. 53 hồ, đập; 3 trạm bơm; hơn 10km kênh mương bị ảnh hưởng, sự cố; 13 công trình cấp nước tập trung bị hư hỏng; 3,5 km đê phải gia cố chống tràn, 9 vị trí phải xử lý mạch đùn sủi và một số hư hỏng, thiệt hại khác, ước thiệt hại 100 tỷ đồng.
Thống kê chưa đầy đủ, tổng thiệt hại trên địa bàn tỉnh tính đến ngày 15/10 là hơn 12.200 tỷ đồng. Thiệt hại lớn vượt quá khả năng cân đối ngân sách của địa phương, tỉnh Thái Nguyên đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành xem xét hỗ trợ trước mắt để khắc phục hậu quả lũ lụt do bão số 11 là 1.130 tỷ đồng.

Lạng Sơn: Vỡ đập thủy điện Bắc Khê 1
Do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 11, trên địa ban tỉnh Lạng Sơn vào rạng sáng ngày 6/10 đã có mưa vừa, mưa to, cục bộ có nơi mưa rất to. Lượng mưa tính từ 07h ngày 6/10 – 13h ngày 7/10 tại: Quyết Thắng 285.0mm, Tân Lập 242.0mm, Tân Tri 232.0mm, Minh Sơn 217.0mm, Bắc Sơn và Hữu Lũng 208.0mm, Nhật Tiến 197.0mm, Nhất Hòa 193.0mm,…
Mưa lớn đã gây ra ngập lụt một số nơi trên địa bàn tỉnh, mực nước trên các sông lúc 08 giờ ngày 08/10/2025: Trên sông Kỳ Cùng tại trạm thủy văn Lạng Sơn là 251,41m (dưới báo động 1); Trên sông Trung tại Trạm Thủy văn Hữu Lũng 24,19 trên báo động 3 là 5,19m; Trên sông Bắc Giang tại trạm thủy văn Văn Mịch đã đạt đỉnh lúc 23 giờ ngày 07/10 là 195,73 trên báo động 3 là 5,73m.
Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, mưa to và lũ lớn đã gây thiệt hại cho hơn 5.100 hộ dân bị ảnh hưởng (10 nhà bị sập, 2.158 nhà bị ngập nước, 2.577 nhà bị cô lập, 249 nhà bị sạt lở đất, 55 nhà có nguy cơ bị sạt lở, 42 công trình phụ bị thiệt hại) đồng thời gây ngập lụt diện rộng tại các xã: Yên Bình, Vân Nham, Hữu Lũng, Tuấn Sơn, Cai Kinh, Thất Khê, Tràng Định, Quốc Việt…
Theo thống kê sơ bộ của các xã tại Lạng Sơn, đã có trên 3.894ha lúa và 1.028 ha hoa màu, rau màu bị ngập, 30 ha cây ăn quả bị gãy đổ, 58 ha rừng bị gãy đổ do mưa lũ. Tỉnh Lạng Sơn cũng đã thống kê có trên 5.530 con gia súc, 102.030 con gia cầm bị chết, cuốn trôi.
Thiên tai cũng đã gây thiệt hại cho 33 cơ sở giáo dục (tại các xã Yên Bình, Vân Nham, Thiện Tân, Tuấn Sơn, Tràng Định, Thất Khê, Hữu Lũng, Nhất Hòa, Quốc Khánh, …); nhiều trường bị ngập năng làm hư hỏng toàn bộ trang thiết bị (máy tính, tivi, bàn ghế, sách vở,….).
Ngành y tế tỉnh Lạng Sơn cũng ghi nhận thiệt hại về tài sản, máy móc, trang thiết bị y tế, ô tô cứu thương tại Trung tâm Y tế khu vực Hữu Lũng và các trạm Y tế xã thuộc TTYT khu vực Hữu Lũng; Trung tâm Y tế khu vực Đình Lập (đổ tường)….
Mưa lũ cũng làm khoảng 1.000 điểm đường giao thông bị sạt lở, ngập lụt; nhiều cầu dân sinh bị xói lở hư hỏng, sạt lở trên 50.165m³; 29 cột điện bị gãy đổ, ngập lụt gây mất điện diện rộng ảnh hưởng tới gần 46.500 khách hàng; mất mạng viễn thông (xã Vân Nham, Yên Bình, Tuấn Sơn, Quý Hòa, Thiện Hòa…)
Tỉnh Lạng Sơn cũng cho biết, đã có trên 100 công trình/hạng mục công trình thuỷ lợi (gồm: hồ chứa, đập dâng, trạm bơm, kênh mương,…), nước sinh hoạt bị hư hỏng, thiệt hại với các mức độ khác nhau như: thấm qua thân đập, sụt lún mái thượng hạ lưu đập, sạt lở mái taluy gây bồi lấp, sạt lở mương; tốc mái, đổ tường nhà trạm bơm, ngập tủ điện các trạm bơm do nước lũ lên nhanh.

Đặc biệt vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 7/10, xảy ra sự cố vỡ một phần vai đập dài khoảng 4m, sâu khoảng 3-4m tại Đập thủy điện Bắc Khê 1, xã Tân Tiến (xã Kim Đồng, huyện Tràng Định cũ). Tỉnh Lạng Sơn hiện ước tính thiệt hại cho đợt mưa lũ này là trên 1050 tỷ đồng, không có thiệt hại về người.
Bắc Ninh: Lũ lớn nhất trong vòng 54 năm
Từ ngày 5/10, bão số 11 và hoàn lưu bão đã gây ra mưa đặc biệt lớn tại tỉnh Bắc Ninh. Do ảnh hưởng của hoàn lưu sau bão, trên địa bàn tỉnh xuất hiện lũ đặc biệt lớn xuất hiện trong 54 năm trở lại đây, gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tài sản, đặc biệt hệ thống đê điều trên địa bàn bị hảnh hưởng nặng nề.
Theo báo cáo của Ban chỉ huy phòng thủ dân sự tỉnh Bắc Ninh, lũ lụt đã làm ngập 153 thôn, tổ dân phố của 20 xã phường với tổng số hơn 15.000 hộ dân phải di dời và cô lập; làm tràn hơn 20 km đê; hơn 60 vị trí đê bị sạt trượt rò rỉ thẩm lậu chân, mái đê; tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ bị ách tắc, sạt lở hơn 300 điểm.
Toàn tỉnh ghi nhận 5 người bị tử vong, 7 người bị thương do mưa lũ. Tổng số nhà bị hư hỏng, đổ sập 99 công trình, 20.857 nhà bị ngập và chia cắt. Hơn 10.500 ha hoa lúa, hoa màu bị ngập; 941 ha cây ăn quả bị ngập; trên 200 triệu con gia súc, gia cầm bị chết; diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại 2.187 ha…. Cùng với đó, toàn tỉnh có 684 điểm bị sạt lở, hư hỏng; 64 tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ bị ngập úng không đi lại được; 17 ngầm, tràn bị hư hỏng.

Trận lũ lịch sử đã khiến 100 vị trí khu vực xảy ra sự cố trên các tuyến, 1 công trình trạm bơm bị ngập; khoảng 240 điểm trường bị ngập và cô lập; 60 trụ sở trạm y tế bị ngập và cô lập. Ước tính tổng giá trị thiệt hại do bão số 11 gây ra trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh khoảng 1.670 tỷ đồng.
Dù đã được thông tin trước về bão số 11, nguy cơ thiên tai kép, lũ chồng lũ, bão chồng bão, nhưng mưa lớn kèm nước từ thượng nguồn về nhanh khiến chính quyền và người dân tại nhiều xã phường rất vất vả trong công tác ứng phó. Tại xã Bố Hạ, điểm ngập lụt lớn nhất của tỉnh Bắc Ninh, với mức nước có nơi sâu đến 2-3, đến ngày 14/10, vẫn còn khoảng 40 hộ dân đang bị cô lập.
Chị Hoàng Kim Nam, ở xã Bố Hạ, Bắc Ninh cho biết do lũ lên nhanh và nằm ngoài dự đoán nên khiến người dân không kịp trở tay. Sáng 7/10, gia đình chị được lực lượng công an xã Bố Hạ hỗ trợ sơ tán toàn bộ cây giống lên vùng đất cao, nơi nước lũ chưa từng ngập đến, tuy nhiên, đến chiều tối, nước bất ngờ dâng lên nhanh, gây ngập toàn bộ vườn ươm và nhà của gia đình, ước tính thiệt hại gần 4 tỷ đồng. Chị cùng người dân phải chạy khẩn cấp lên đồi tránh lũ, đến gần sáng mới được các lực lượng cứu hộ đến cứu đưa đến nơi an toàn. Với chị Nam và người dân Bố Hạ, đây là trận lụt lịch sử lớn nhất từ trước đến nay.
Đáng chú ý, hoàn lưu bão số 11 gây mưa kéo dài và lũ đặc biệt lớn trên các sông đã khiến hệ thống đê điều ở nhiều nơi trong tỉnh Bắc Ninh xuất hiện sự cố nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, tài sản nhân dân, ảnh hưởng tới đô thị, khu công nghiệp, giao thông, sản xuất và đời sống dân sinh.
Trước diễn biến phức tạp, để bảo đảm an toàn công tác đê điều, ngày 13/10, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh đã công bố tình huống khẩn cấp đối với 27 sự cố đê điều do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 11 (tính đến ngày 10/10/2025). Các sự cố khẩn cấp có tổng chiều dài 12.805 m, thuộc các tuyến đê: Tả Thương Dương Đức, hữu Thương, tả Cầu, hữu Cầu, hữu Cà Lồ và một số tuyến đê bối quan trọng khác trong tỉnh. Các tuyến đê nêu trên thuộc địa bàn các xã, phường Hợp Thịnh, Xuân Cẩm, Vân Hà, Tam Giang, Yên Phong, Yên Trung, Nhân Hoà, Quế Võ, Đào Viên, Kinh Bắc, Phúc Hoà, Tân Yên, Đa Mai, Tiền Phong, Bắc Giang, Mỹ Thái, Tân Tiến, Tiên Lục, Yên Dũng.
Cao Bằng: Mưa lũ làm 7 người chết
2 đợt mưa lũ, ngập lụt liên tiếp xảy ra cuối tháng 9, đầu tháng 10 tại tỉnh Cao Bằng đã gây hậu quả, thiệt hại nặng nề. Theo thống kê sơ bộ, mưa lũ, ngập lụt, lũ quét, sạt lở đất đã khiến 7 người chết, 5 người bị thương. Hơn 14.000 ngôi nhà bị thiệt hại, ảnh hưởng sập đổ, tốc mái, sụt nền, ngập nước. Trên 11.000 ha lúa và hoa màu, cây trồng bị ngập úng, gãy đổ, vùi lấp. Hàng vạn con gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi; nhiều khu vực dân cư chia cắt, cô lập; nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch, các trường học, cơ sở y tế, công trình thuỷ lợi, hệ thống điện, nước… bị hư hỏng nặng nề. Tổng thiệt hại về kinh tế khoảng trên 3.000 tỷ đồng.
Trong 2 đợt mưa lũ, hạ tầng giao thông tại tỉnh Cao Bằng cũng hứng chịu thiệt hại nặng nề, Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Cao Bằng Nông Tuấn Hùng cho biết, theo thống kê sơ bộ, trên các tuyến đường giao thông tại tỉnh Cao Bằng có khoảng 1.651 vị trí sạt lở taluy dương với khối lượng đất đá ước tính 770.000 m³, và 99 vị trí sạt lở taluy âm với tổng chiều dài khoảng 2.100 mét. Nhiều cây cầu bị sập đổ, hư hỏng, thiệt hại.



Những năm gần đây, mỗi lần xảy ra mưa lũ, nhiều người, đặc biệt trên mạng xã hội hay có thói quen đổ lỗi cho “thủy điện xả lũ” hoặc “nước láng giềng xả lũ”. Những theo nhiều chuyên gia, đó là những nhận định chủ quan thiếu chứng cứ khoa học, thậm chí sai lệch hoàn toàn.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mai Đăng, Giám đốc Trung tâm Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Thủy lợi, có nhiều nguyên nhân dẫn đến những trận lụt lịch sử vừa qua, trong đó nguyên nhân lớn nhất là do mưa cực đoan. Một số trận mưa vượt mức lịch sử, với lượng mưa hơn 500 mm/ngày tại một số vùng, lớn nhất từ trước đến nay so với các trận mưa trước.
“Nguyên nhân thứ hai là sự thay đổi sử dụng đất và quá trình đô thị hóa trên lưu vực. Việc giảm diện tích hồ, ao, cây xanh khiến hệ số dòng chảy tăng lên, dẫn đến ngập lụt cả trong nội thành lẫn đồng ruộng. Tuy nhiên, các đê chính của chúng ta vẫn được giữ an toàn. ” – PGS, TS Nguyễn Mai Đăng nhận định. “Bên cạnh đó, việc áp dụng các giải pháp mềm như đắp bao cát lên đê cũng giúp chống tràn và vỡ. Như vậy, phần lớn ngập lụt trong nội đồng là do mưa cục bộ, còn ngoài sông là do dòng chảy từ thượng lưu.”
Ngoài các lý do trên, việc thiếu các “giải pháp quản lý rủi ro thiên tai ngập lụt” cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều khu đô thị chìm trong biển nước.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trực (Trưởng nhóm Nghiên cứu Kỹ thuật hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, Khoa Kiến trúc, Đô thị và Khoa học bền vững, Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết: “Hiện nay chúng ta đang thiếu giải pháp quản lý rủi ro thiên tai ngập lụt. Hà Nội và các khu vực lân cận như Thái Nguyên, Bắc Ninh, Lạng Sơn… dường như đều đang thiếu một “quy trình quản lý rủi ro thiên tai ngập lụt” hiệu quả. Các giải pháp chúng ta đã và đang thực hiện khá rời rạc, đơn lẻ, thiếu tính hệ thống, tổng thể và chủ động; chủ yếu mang tính khắc phục và bị động”.
Nguyên do nữa được Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trực đưa ra là quy hoạch thoát nước chưa đồng bộ, chậm cập nhật, hạ tầng thoát nước, thoát lũ lạc hậu, công suất thấp, chưa bám sát kịch bản biến động lượng mưa liên quan đến biến đổi khí hậu.

Tại Thái Nguyên, nhiều người dân phản ánh, tuyến đê sông Cầu dài, đòi hỏi vốn đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng nên chưa huy động, bố trí xây dựng được để bảo vệ người dân đô thị trung tâm thành phố. Nhưng do hạ tầng phòng chống thiên tai, thoát nước đô thị trên địa bàn nhiều năm chưa được đầu tư, sửa chữa, nâng cấp thỏa đáng, kể cả khi không có nước sông Cầu tràn vào thì cứ hễ mưa lớn là úng ngập nhiều nơi, trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người, nhiều gia đình.

Như vậy, ngoài những nguyên nhân khách quan như mưa cực đoan, chúng ta cần phải nhìn thẳng cả vào những thiếu sót để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu những nguy cơ có thể xảy ra trong tương lai. Thậm chí, có vị chuyên gia còn cho rằng miền Bắc cần chuẩn bị tâm lý “sống chung với lũ” xảy ra hàng năm! Nhưng dù thế nào thì nhiệm vụ trước mắt của chúng ta là phải gia cố lại hệ thống đê, bởi theo thống kê, trong đợt mưa lũ lần này đã xảy ra tới 59 sự cố liên quan đến đê điều.
Trả lời câu hỏi của phóng viên Báo Nhân Dân, liệu các tuyến đê hiện nay còn phù hợp không trong bối cảnh thiên tai ngày càng cực đoan, PGS, TS Nguyễn Mai Đăng cho rằng: “Hiện nay, phần lớn hệ thống đê điều là đê đất, chỉ có một số đoạn như đê Nghi Tàm ở Hà Nội đã bê tông hóa. Việc làm đê đất không có nghĩa là không an toàn. Chúng ta vẫn đảm bảo an toàn bằng việc xử lý sự cố, bơm vữa, chám lớp và làm các kè bảo vệ hằng năm.”
PGS, TS Nguyễn Mai Đăng nhận xét, các cơ quan chức năng cần rút kinh nghiệm, xem xét lại chuỗi thủy văn, dòng chảy, và đánh giá tiêu chuẩn thiết kế. Nếu biến đổi khí hậu khiến mưa lũ ngày càng cực đoan, có thể cần nâng cao đê hoặc tăng cường bảo vệ cho các khu dân cư, khu sản xuất kinh doanh và khu công nghiệp với mật độ dân số cao hơn, đáp ứng nhu cầu bảo vệ ngày càng lớn.
Phó Giáo sư Nguyễn Mai Đăng cũng cho hay, có hai tiêu chí quan trọng. Thứ nhất là tiêu chí về mặt kỹ thuật: các tuyến đê phải được thiết kế và nâng cấp để thích ứng với biến đổi khí hậu, đánh giá và rà soát lại khả năng chống chịu sau khi xảy ra các trận thiên tai cực đoan.
Thứ hai là tiêu chí về mặt xã hội: cần đánh giá mức độ tổn thương và rủi ro cho các vùng dân cư, các khu công nghiệp. Những khu vực cần bảo vệ tuyệt đối thì có thể xây dựng đê bao hoặc nâng cấp đê hiện có. Ngược lại, với những khu vực thường xuyên xảy ra rủi ro nhưng có thể di dân, chuyển đổi mục đích sử dụng đất thì nên để dành khoảng trống để chứa lũ, ví dụ như hành lang thoát lũ hay khu phân lũ.
Tóm lại, việc nâng cấp, duy tu đê điều cần quan tâm đồng thời cả hai tiêu chí kỹ thuật và xã hội để vừa bảo đảm an toàn vừa tối ưu hóa khả năng ứng phó với thiên tai.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu các địa phương như Thái Nguyên, Bắc Ninh triển khai kiên cố lại bờ đê dọc tuyến sông Cầu. Nhìn nhận về chủ trương này, PGS, TS Nguyễn Mai Đăng nói: “Đây là chủ trương rất đúng. Qua các đợt thiên tai vừa rồi, Chính phủ nhận thấy cần phải nâng cấp hệ thống đê điều, kiên cố hóa các tuyến đê. Một số đoạn có thể cần nâng cao trình đê nếu tiêu chuẩn kỹ thuật hiện tại chưa đáp ứng được.”
Cụ thể, các chuỗi thủy văn bị tác động bởi biến đổi khí hậu cần được đánh giá lại để xác định mức nâng cao trình đê phù hợp. Đồng thời, với sự gia tăng dân cư, các khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng và công trình công cộng, tiêu chuẩn phòng lũ cũng phải được nâng lên.
Một số tuyến đê quan trọng sẽ được kiên cố hóa, làm kè bảo vệ. Ngoài ra, cần xây dựng các hồ điều hòa để giảm áp lực cho tuyến đê, phân vùng chậm lũ và, nếu cần thiết, thiết lập các tràn sự cố như “cầu chì” để tránh vỡ đột ngột trong các tình huống khẩn cấp.
Bên cạnh các giải pháp nói trên, việc thay đổi tư duy trong quy hoạch, xây dựng hạ tầng để tăng cường khả năng chống ngập úng, thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu hiện nay, đặc biệt tại các đô thị lớn cũng là nhiệm vụ rất cấp bách.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam (VARSI) nhận định: “Để giải quyết dứt điểm bài toán úng ngập, cần sự vào cuộc của tất cả các bên. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò dẫn dắt và chỉ đạo tổng thể, mở ra cơ chế chính sách để triển khai thực hiện. Mặt khác, khối doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm chung tay với các cơ quan quản lý, thể hiện thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu các mô hình giải pháp, ứng dụng khoa học – công nghệ mới cũng như thực thi”.
Kinh nghiệm thực tế rút ra từ các công trường và vùng bị thiên tai cho thấy, dù năng lực ứng phó tốt nhưng thiếu phương án thích ứng, vẫn có thể xảy ra thiệt hại về người và tài sản. Do đó, cần trả lại không gian cho sông hồ, khôi phục điều tiết tự nhiên; tăng diện tích thấm nước, mở rộng mảng xanh; xây hồ điều hòa, bể trữ ngầm với hệ thống bơm-cống linh hoạt.
Từ góc nhìn của cán bộ quản lý, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Ninh Đặng Công Hưởng cho rằng, về lâu dài, tỉnh cần sớm triển khai lập dự án rà soát quy hoạch phòng chống lũ theo QĐ257/QĐ-TTg 18/02/2016, đầu tư xây dựng hồ Là Lạnh trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (đã phê duyệt trong QĐ số 847/QĐ-TTg ngày 14/7/2023) và quan tâm xây dựng cơ chế chính sách đặc thù để di dân tái định cư khu vực dân cư đang sinh sống trên các vùng bãi sông; chính sách hỗ trợ về nước sạch nông thôn các vùng trung trung du và miền núi.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Lê Xuân Lợi nhấn mạnh, tỉnh luôn coi công tác phòng, chống thiên tai là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; đầu tư cho đê điều, hồ chứa, trạm bơm không chỉ để ứng phó với lũ mà còn để bảo vệ thành quả của sự phát triển, trọng tâm là bảo vệ bền vững nền nông nghiệp, khu công nghiệp, bảo vệ dân sinh. Thực tế cho thấy, trước tình thế cấp bách, các địa phương đã dồn sức bảo vệ thành công các tuyến đê chính song về lâu dài, tỉnh sẽ kiến nghị Trung ương hỗ trợ kỹ thuật và nguồn lực để cứng hóa các tuyến đê trọng yếu, từng bước nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước, bảo đảm các giải pháp dài hạn và bền vững trong phòng chống thiên tai.

Việc chỉ ra nguyên nhân, giải pháp phóng chống thiên tai là nhiệm vụ cần thiết. Ngoài ra, cũng cần đúc kết những bài học để giải quyết vấn đề này một cách bền vững.
Cấp xã phải chủ động hơn, có biên chế cho kỹ sư thủy lợi
PGS, TS Nguyễn Mai Đăng cho biết, ngay cả các nước tiên tiến vẫn phải đối mặt với ngập lụt. Thí dụ, tháng 7 năm nay, thành phố New York cũng bị ngập, nhưng nhờ khả năng ứng phó tốt và hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, thiệt hại được giảm tối đa. Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của họ theo hai hướng: Tăng cường các công trình hồ chứa và ứng dụng công nghệ: Xây dựng hệ thống điều tiết lũ hiện đại, ứng dụng mô hình tính toán, cảnh báo sớm, giúp giảm thiểu thiệt hại cho người dân.
Giải pháp chứa lũ tại chỗ cho các khu đô thị: Với tốc độ đô thị hóa nhanh, cứng hóa bề mặt, mất diện tích ao hồ, đồng ruộng, cần nâng cấp hệ thống thoát nước, tăng cường bơm tiêu động lực, áp dụng các giải pháp tại chỗ để hạn chế ngập lụt. Những kinh nghiệm hiệu quả từ các nước tiên tiến có thể học tập, còn những điều chưa hiệu quả thì có thể bỏ qua.
Bên cạnh bài học trên là bài học về công tác phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong quản lý đê điều. PGS, TS Nguyễn Mai Đăng cho hay, trong đợt chống lũ hai cơn bão vừa qua, các cơ quan chức năng, lực lượng phòng thủ dân sự, quân đội và nhân dân địa phương đã phối hợp tốt trong việc bảo vệ đê, xử lý sự cố và cứu hộ cứu nạn. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta vừa chuyển từ mô hình ba cấp xuống hai cấp, tức trực tiếp từ cấp tỉnh xuống cấp xã. Trước đây, cấp huyện có các phòng chuyên môn phụ trách nông nghiệp, tài nguyên môi trường, thủy lợi và phòng chống thiên tai. Nay, cấp xã phải chủ động hơn, cần có biên chế kỹ sư thủy lợi, kỹ sư tài nguyên nước, quản lý đê điều và hồ chứa, đặc biệt trong bối cảnh đô thị hóa và công nghiệp hóa đang gia tăng. Việc này nhằm đảm bảo quản lý ngập lụt tại các vùng nông thôn, thị trấn và các khu vực sản xuất kinh doanh.
Bài học về thông tin kịp thời cho người dân
Một bài học lớn nữa cũng được nhiều chuyên gia nhắc tới là công tác thông tin, tuyên truyền về phóng chống thiên tai cho người dân. Trong đợt mưa lũ do bão số 3 (Yagi, tháng 9/2024), Thái Nguyên từng chịu thiệt hại rất lớn. Lần này, nhiều người cho rằng, lũ do bão số 11 lên cao cũng chỉ như lũ do bão số 3 năm 2024 là cùng. Mặt khác, trưa ngày 7/10 ở nhiều khu vực nước đã rút 30- 40 cm, đa phần đều nghĩ rằng lũ sẽ không lên nữa và có dấu hiệu chủ quan. Nhưng sau đó chỉ khoảng hơn một tiếng, nước sông Cầu đổ vào trung tâm tỉnh Thái Nguyên và dâng cao hơn 2m so với đỉnh lũ tháng 9/2024.
Ông Dương Văn Đạc và hàng xóm ở tổ 17, phường Phan Đình Phùng, phường trung tâm tỉnh Thái Nguyên trưa ngày 7/10 ngồi uống trà, bàn luộn mưa lũ, cho rằng nước bắt đầu xuống thì sẽ không lên nữa. Ông Đạc chia sẻ: “Do chủ quan, thiếu thông tin, không đánh giá hết mức độ lũ nên có thời điểm bị bỏ lỡ. Đó là có thể di chuyển 2 ô-tô của gia đình đến nơi an toàn, nhưng nghĩ lũ không dâng cao nên cứ để ở nhà; đến khi nhận thấy sự nguy hiểm thì không đưa xe ra được vì đường phố đã ngập sâu, sau đó ô tô bị ngập”. Nhiều người đã di chuyển ô-tô lên chỗ được cho là cao, nhưng vẫn bị ngập, sửa chữa hết từ vài chục triệu đồng đến vài trăm triệu đồng.
Mặc dù tỉnh Thái Nguyên cảnh báo lũ lụt sẽ lên nhanh, dâng cao, nhưng ngay từ rạng sáng ngày 7/10 thì nhiều khu vực đã mất điện. Điều này được coi là bất khả kháng, vì ngành điện còn tính tới việc bảo đảm an toàn điện. Nhưng sau mất điện là là mất liên lạc (viễn thông, internet), dẫn đến rất nhiều người dân không tiếp cận được thông tin về mưa lũ, cảnh báo từ ti vi, đài, báo chí, các nhóm mạng xã hội…
Trả lời về vấn đề này, theo đại diện của nhà mạng Viettel (có thị phần lớn nhất), cơn bão số 11 đã gây mưa lớn kéo dài, khiến nhiều khu vực của tỉnh Thái Nguyên bị ngập sâu, sạt lở và chia cắt, hệ thống điện bị gián đoạn trên diện rộng và kéo dài, dẫn tới, một số trạm BTS bị mất nguồn do bị cô lập, diễn ra rải rác tại một số khu vực như Trung tâm Thành phố Thái Nguyên, Võ Nhai, Na Rì, Định Hóa. Do đặc thù Thái Nguyên có nhiều vùng trũng bị ngập sâu và cô lập nên công tác di chuyển, mang vật tư, xăng dầu ứng cứu thông tin gặp rất nhiều khó khăn.

Trước diễn biến phức tạp của thiên tai, Viettel đã chủ động triển khai hàng loạt phương án ứng phó linh hoạt cả về con người và trang thiết bị ứng cứu thông tin, nhanh chóng khoanh vùng và kiểm soát được ảnh hưởng. 300 nhân sự từ các tỉnh lân cận, bao gồm cả lực lượng tinh nhuệ tại các Tổng Công ty đã được huy động để có mặt tại Thái Nguyên ngay trong đêm. Viettel đã chủ động trang bị 50 chiếc thuyền, xuồng để đảm bảo tiếp xăng dầu cho các trạm BTS chị chia cắt, hàng chục drone cho nhiệm vụ trinh sát và vận tải thiết bị, xăng dầu tới các điểm ngập lụt, sạt lở không tiếp cận được.
Cùng với đó, Viettel đã trang bị thêm hệ thống điện thoại vệ tinh, bộ đàm, nhiều xe phát sóng cơ động, 100 máy phát điện và 1.000 ắc quy để đảm bảo thông tin liên lạc cho người dân và công tác cứu hộ cứu nạn tại địa phương.
Cũng cần nói thêm, sự tham gia của các cấp, các ngành, đặc biệt là lực lượng quân đội, công an cũng đã góp phần khắc phục nhanh những thiệt hại do bão lũ gây ra, giúp nhân dân khẩn trương khôi phục lại cuộc sống.
Trong chuyến kiểm tra công tác khắc phục bão lũ tại Thái Nguyên hôm 16/10, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề nghị chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng tích cực, chủ động triển khai các biện pháp hỗ trợ nhằm khẩn trương khắc phục thiệt hại, giúp các hộ dân bị ảnh hưởng sớm ổn định cuộc sống, khôi phục các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, biến đổi khí hậu làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, diễn biến rất khó lường, chính quyền địa phương và nhân dân cần nâng cao tính chủ động để thích ứng kịp thời, có phương án dự phòng từ xa nhằm hạn chế thấp nhất những hậu quả có thể xảy ra; chú trọng việc đầu tư gia cố hệ thống giao thông, đê điều, thủy lợi…
Những bài học ấy không bao giờ là cũ!

